Bài đăng nổi bật

Nghe 100 Truyện ngắn của Tràm Cà Mau

  Nghe 100 Truyen Ngan Cua Tram Ca Mau ( Tac gia không giữ bản quyền.) bấm mỗi dòng dưới đây để nghe một truyện: Tuoi Gia La Tuoi Sung Suong...

Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

VIỄN ẢNH ĐEN TỐI CỦA VIỆT NAM TRƯỚC ÂM MƯU THÂM ĐỘC CỦA TRUNG HOA _ PD LAN



VIỄN ẢNH ĐEN TỐI CỦA VIỆT NAM
TRƯỚC ÂM MƯU THÂM ĐỘC CỦA TRUNG HOA


PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.


                                 

          Trung Hoa là một đế quốc cổ xưa. Khi Trung Hoa hùng vượng thì các quốc gia láng giềng của Trung Hoa không được yên ổn. Ở Đông Á có hai quốc gia độc lập nhưng thần phục Trung Hoa: Triều Tiên và Việt Nam.
Trung Hoa mất ảnh hưởng trên bán đảo Triều Tiên trước Nhật sau khi bị nước này đánh bại năm 1894. Từ năm 1895 đến 1945 Trung Hoa hoàn toàn mất ảnh hưởng trên bán đảo Triều Tiên.
Trung Hoa mất ảnh hưởng ở Việt Nam từ năm 1884 đến 1945. Sự dung chứa quan nhiếp chánh Tôn Thất Thuyết và các nhà cách mạng Việt Nam như Phan Bội Châu, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Hải Thần, Hồ Học Lãm, Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Trương Bội Công, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) có vẻ như là lòng nghĩa hiệp và tinh thần tương trợ của Trung Hoa. Thực tế họ nghĩ đến việc tái lập ảnh hưởng ở Việt Nam để tiếp tục xem đó là một quốc gia chư hầu như đã thấy trong quá khứ.
Cơ hội tái lập ảnh hưởng chánh trị ở Việt Nam đã đến sau khi Nhật đầu hàng. Theo tinh thần hội nghị Potsdam, Trung Hoa Quốc Dân Đảng giải giới quân Nhật ở phía bắc vĩ tuyến 16. Quân Anh giải giới quân Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16. Quân Trung Hoa vào Bắc Bộ dưới sự chỉ huy của tướng Lư Hán. Vị tướng này chiếm Phủ Toàn Quyền như thể ông là Toàn Quyền người Trung Hoa thay thế Toàn Quyền người Pháp. Đạo quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng này không giúp cho các nhà cách mạng Nguyễn Hải Thần của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội và Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam của Việt Nam Quốc Dân Đảng nắm quyền ở Hà Nội vì Việt Minh đã cướp chánh quyền từ ngày 19 - 08 - 1945 nghĩa là 05 ngày sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng.
Người lãnh đạo Mặt Trận Việt Minh là Hồ Chí Minh, một cán bộ của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản đào luyện vào năm 1924 và 1934. Năm 1920 Hồ Chí Minh dùng bí danh Nguyễn Ái Quấc (Nguyễn, Le Patriote), bút hiệu tập thể của nhóm Ngũ Long (Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Tất Thành) ở Paris sau đệ nhất thế chiến, để gia nhập vào đảng Cộng Sản Pháp. Ông hoạt động trên lãnh thổ Trung Hoa dưới tên Lý Thuỵ (1925). Ông thành lập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội năm 1925 rồi đảng Cộng Sản Việt Nam (03 - 02 - 1930) đổi thành đảng Cộng Sản Đông Dương trên lãnh thổ Trung Hoa. Ông bị chánh quyền Anh bắt giữ ở Hong Kong năm 1931. Năm 1938, theo lịnh của Stalin, ông vượt biên giới Trung- Sô để đến chiến khu Yenan ( Diên An). Từ năm 1938 đến 1942 người ta biết ông qua các bí danh: Hồ Quang, Ông Già Trần, Ông Già Thu và Hồ Chí Minh.
Vì hoạt động trên lãnh thổ Trung Hoa và vì chánh phủ Trung Hoa Quốc Dân Đảng chống Cộng dữ dội ông phải che giấu lý lịch Cộng Sản của mình bằng cách vay mượn danh xưng Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội do đại tá Hồ Học Lãm lập ra ở Nam Kinh năm 1936 và bí danh Hồ Chí Minh của Hồ Học Lãm. Ông này là một đại tá có uy tín trong quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng, gốc người Nghệ An. Vợ ông là người Trung Hoa. Hồ Quang mang bí danh Hồ Chí Minh và hoạt động tình báo cho chánh phủ Chongqing (Trùng Khánh) do tướng Chang Fa-kwei ( Trương Phát Khuê) tuyển dụng. Đó cũng là lúc ông hoạt động tình báo cho OSS của Hoa Kỳ dưới bí danh Lucius.
Dân chúng Bắc Bộ chán ghét sự hiện diện và cách cư xử của quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Do đó họ cũng không có nhiều cảm tình đối với các ông Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam được quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng hậu thuẫn. Cả ba vị này đều tham gia chánh phủ Liên Hiệp do Hồ Chí Minh đứng đầu và chạy sang Trung Hoa khi quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng rút về nước sau khi Sainteny và Hồ Chí Minh ký hiệp ước sơ bộ 06 - 03 - 1946. Pháp gây sức ép buộc quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng rút khỏi Bắc Bộ như là sự thi hành hiệp ước Pháp- Hoa được ký kết ở Chongqing ngày 28 - 02 - 1946. Hồ Chí Minh bị chỉ trích khi ký hiệp ước sơ bộ 06 - 03 vì cho phép 15,000 quân Pháp vào Hà Nội. Nhưng đó là một thắng lợi to lớn của ông vì:
  • giữa Pháp và Trung Hoa, Pháp kém nguy hiểm hơn Trung Hoa. Pháp cách xa Việt Nam trên 10, 000 km. Họ là những người da trắng ở xa, mỏi mệt sau đệ nhị thế chiến trong khi Trung Hoa là những người láng giềng to lớn, nghèo đói, cùng màu da, sẵn sàng bám trụ lâu dài.
  • quân Trung Hoa Quốc Dân Đảng rút khỏi Bắc Bộ. Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng mất hậu thuẫn. Các ông Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế Tổ cũng rời Bắc Bộ. Đương nhiên Hồ Chí Minh loại các đối thủ chánh trị của ông chịu ảnh hưởng sâu đậm của Trung Hoa Quốc Dân Đảng.
  • chiến tranh giữa Việt Nam và Pháp sẽ không tránh khỏi. Việt Nam khao khát độc lập. Pháp muốn tái chiếm thuộc địa để bảo tồn sự vĩ đại của nước Pháp. Trên sân khấu chánh trị chỉ còn mỗi một Hồ Chí Minh lãnh đạo kháng chiến chống Pháp mà thôi.
Ngày 02 - 09 - 1945 Nhật ký hiệp ước đầu hàng trên chiến hạm USS Missouri cũng là ngày Hồ Chí Minh đọc bảng Tuyên Ngôn Độc Lập và cho ra đời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, một nước Cộng Sản đầu tiên ở Đông Nam Á sau đệ nhị thế chiến. Hồ Chí Minh sốt sắng chống Pháp để biến Việt Nam thành một nước Cộng Sản để khối Cộng Sản dưới sự lãnh đạo của Stalin có thêm một quốc gia nông nghiệp và thuộc địa trở thành quốc gia Cộng Sản ở Đông Á. Điều đáng ngạc nhiên là Stalin không nhìn nhận chánh phủ Hồ Chí Minh và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Stalin cũng lãnh đạm trước cuộc kháng chiến chống Pháp do Hồ Chí Minh lãnh đạo từ năm 1946 đến 1950. Vì sao?
Stalin không quan tâm đến Việt Nam vì đó là một nước nông nghiệp Á Châu xa xôi nơi vai trò của giai cấp công nhân không đáng kể.
  1. Về phương diện văn hoá và lịch sử Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm của Trung Hoa. Stalin xem Mao Zedong (Mao Trạch Đông) là người bướng bỉnh đã Hán hoá và nông nghiệp hoá chủ nghĩa Marx- Lenin. Stalin chú trọng nhiều đến các quốc gia Đông Âu hơn là Việt Nam.
  2. Năm 1934 Pháp ủng hộ Liên Sô gia nhập vào Hội Quốc Liên. Pháp nhìn nhận chế độ Cộng Sản Sô- Viết từ năm 1924. Năm 1935 hiệp ước hổ tương Pháp- Liên Sô được ký kết. Stalin theo chánh sách ngoại giao thân thiện với Pháp của các Nga hoàng từ năm 1892 đến 1917 để chống lại Đức. Stalin thân thiện với Pháp cũng nhằm mục đích ấy. Năm 1936 Mặt Trận Bình Dân nắm chánh quyền ở Pháp. Stalin uỷ nhiệm đảng Cộng Sản Pháp giám sát Đông Dương Cộng Sản Đảng. Năm 1944 hiệp ước liên minh hổ tương Pháp- Liên Sô được ký kết giữa George Bidault và Molotov ngày 10 - 12 - 1944 và có hiệu lực trong 20 năm. Năm 1950 Stalin bất đắc dĩ nhìn nhận chánh phủ kháng chiến của Hồ Chí Minh sau Mao Zedong vì sợ mất ảnh hưởng đối với Hồ Chí Minh, người do Liên Sô đào tạo, có tên Nga và dĩ nhiên phục vụ cho quyền lợi của Liên Sô.
Cuộc chiến tranh chống Pháp bùng nổ vào cuối năm 1946. Lúc ấy ở Trung Hoa có cuộc nội chiến Quốc- Cộng lần thứ hai. Lần này Mao Zedong có nhiều ưu thế hơn Chiang Kaishek (Tưởng Giới Thạch). Đến năm 1949 Chiang Kaishek mất lục địa. Trung Hoa trở thành Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc. Vừa nắm chánh quyền chưa được 03 tháng Mao công nhận chánh phủ Hồ Chí Minh, viện trợ võ khí, lương thực và gởi cố vấn chánh trị và quân sự sang vùng rừng núi Việt Bắc. Trên thực tế Cộng Sản Trung Hoa điều khiển cuộc chiến tranh chống Pháp. Hầu hết các đảng viên Cộng Sản Việt Nam ở Bắc Bộ và bắc Trung Bộ và dân tộc thiểu số như người Tày (Choang), Thổ, Nùng ở miền thượng du Bắc Bộ đều thân Trung Hoa. Đứng đầu nhóm này có Trường Chinh Đặng Xuân Khu, Hoàng Văn Thụ (bị xử bắn năm 1944), Chu Văn Tấn. Trường Chinh Đặng Xuân Khu được bầu làm tổng bí thơ đảng Lao Động năm 1951 vì từ tháng 11 năm 1945 Hồ Chí Minh giả vờ giải tán đảng Cộng Sản Đông Dương. Trường Chinh khuynh đảo Hồ Chí Minh nhờ hậu thuẫn của các cố vấn quân sự và chánh trị của Cộng Sản Trung Hoa. Cộng Sản Trung Hoa dùng tướng quân sự Nguyễn Sơn và tướng chánh trị Nguyễn Chí Thanh để điều khiển bộ đội nhằm giảm thiểu vai trò của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Nhờ sự trợ giúp tích cực của Cộng Sản Trung Hoa, Việt Minh chiến thắng Pháp trong Chiến Dịch Biên Giới năm 1950 và chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954. Các chánh uỷ trong bộ đội hay các cơ quan hành chánh kháng chiến đều do đảng viên Cộng Sản thân Trung Hoa hay do Cộng Sản Trung Hoa kết nạp nắm giữ. Nguyễn Sơn không thay thế Võ Nguyên Giáp được nhưng ông ta xem thường khả năng quân sự của tướng Giáp. Hồ Chí Minh dùng Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp để phát triển thế lực cá nhân ở Bắc Bộ trong đệ nhị thế chiến. Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp đều là người miền Trung. Hồ Chí Minh sinh ở Nghệ An; Phạm Văn Đồng sinh ở Quảng Ngãi và Võ Nguyên Giáp sinh ở Quảng Bình. Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp biết nhiều về Bắc Bộ vì có học ở đó thời tiến chiến. Hồ Chí Minh mới biết Hà Nội vào mùa thu năm 1945 sau khi Việt Minh cướp chánh quyền ở Hà Nội.
Nếu chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của Việt Minh tại sao Phạm Văn Đồng lu mờ tại hội nghị Genève trong khi Zhou Enlai ( Châu Ân Lai) có vai trò chủ động? Nếu là chiến thắng của Việt Minh thì tại sao Hồ Chí Minh phải nghe lời Zhou Enlai chấp nhận qua phân xứ sở? Sau trận Điện Biên Phủ, Beijing (Bắc Kinh) lo sợ sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ trên bán đảo Đông Dương. Họ muốn tránh một cuộc đụng độ võ trang với Hoa Kỳ nên gây áp lực buộc Hồ Chí Minh chấp nhận sự chia đôi nước Việt Nam thay vì hò reo chiến thắng. Miền Bắc trở thành hàng rào bảo vệ biên giới của Trung Hoa lục địa ở phía nam.
Ở miền Bắc không còn sự hiện diện của người Pháp nhưng phần đất này trở thành vùng tranh giành ảnh hưởng của hai quốc gia Cộng Sản to lớn: Liên Sô và Trung Hoa Cộng Sản. Những hình ảnh thường thấy ở miền Bắc là ảnh của Hồ Chủ Tịch, chủ tịch Mao Trạch Đông, tổng bí thơ Malenkov, Karl Marx, Lenin, Stalin. Ảnh hưởng của Trung Hoa Cộng Sản có vẻ lấn át ảnh hưởng của Liên Sô. Chánh sách cải cách ruộng đất, tố khổ, mắng nhiếc và giết địa chủ, cách ăn mặc, âm nhạc nghệ thuật, trăm hoa đua nở đều mô phỏng theo Trung Hoa Cộng Sản. Dân miền Bắc vẫn xa lạ với người Nga. Hình hài của họ không khác người Pháp mà họ có công đánh đuổi. Dân miền Bắc gần gũi với văn hoá Trung Hoa hơn là văn hoá Tây Phương. Nhưng Bác Hồ là người do Liên Sô đào tạo. Bác không tán đồng đường lối sống chung hoà bình với Tây Phương ( Tư Bản) của Khrushchev, một người Ukraine làm tổng bí thơ đảng Cộng Sản Liên Sô.
Sự tranh chấp quyền hành ở miền Bắc giữa phe Maoist và Sô- Viết gay gắt vào năm 1956 nghĩa là giữa ông Hồ Chí Minh (thân Sô- Viết) và Trường Chinh Đặng Xuân Khu ( phe Maoist). Phe thân Sô- Viết đóng vai trò ông Thiện và qui tội ác cho chánh sách cải cách ruộng đất đẫm máu theo chủ nghĩa Mao cho ông Ác Trường Chinh. Ông này mất chức tổng bí thơ đảng Lao Động. Từ năm 1956 đến 1960 Hồ Chí Minh vừa là chủ tịch đảng, tổng bí thơ đảng và chủ tịch Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Nhưng ông vẫn nể sợ Mao Zedong nên Trường Chinh vẫn là nhân vật số 3 trong Bộ Chánh Trị của đảng Lao Động. Năm 1960 Lê Duẩn được bầu làm bí thơ thứ nhất của đảng. Danh chức tổng bí thơ vắng bóng từ năm 1960 đến 1976. Cuộc tranh chấp quyền hành giữa các nhà lãnh đạo Cộng Sản ở miền Bắc mang hai sắc thái:
a. tranh chấp giữa phe thân Sô- Viết và phe thân Mao
b. tranh chấp quyền lực giữa các lãnh đạo Cộng Sản gốc miền Trung (Hồ Chí Minh) và miền Bắc (Trường Chinh)
Năm 1957 có tin đồn có đảo chánh ở miền Bắc khi Hồ Chí Minh thăm viếng Liên Sô về. Nhưng không có người nào trong phe thân Mao dám đứng ra cầm đầu nên không có biến cố chánh trị nào xảy ra. Hồ Chí Minh rơi vào hoàn cảnh khó xử. Ông không tán đồng chủ nghĩa xét lại và hạ bệ Stalin của Khrushchev nhưng ông vẫn phải trung thành với Liên Sô. Ông không theo Bước Tiến Nhảy Vọt (1958) và Cách Mạng Văn Hoá của Mao Zedong (1966 - 1976) nhưng ông phải từ bỏ chức tổng bí thơ đảng mà ông nắm giữ sau khi hạ bệ Trường Chinh năm 1956 cho Lê Duẩn.
Lê Duẩn là Xứ Uỷ Nam Bộ, xuất thân là một công nhân đường sắt nên rất thích hợp trong việc lãnh đạo đảng Lao Động. Lenin và Stalin định nghĩa đảng Cộng Sản là đảng của giai cấp công nhân trong khi Trường Chinh Đặng Xuân Khu xuất thân từ một gia đình khoa bảng và quan lại phong kiến nổi tiếng ở Hành Thiện, Nam Định.
Năm 1956 không có tổng tuyển cử ở Việt Nam. Những cán bộ Cộng Sản nằm vùng ở phía nam vĩ tuyến 17 bắt đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng cách ám sát, bắt cóc những viên chức xã thôn và các giáo viên của chánh quyền Sài Gòn. Hồ Chí Minh và Lê Duẩn dùng cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam để: che lấp những thất bại kinh tế của Cộng Sản ở miền Bắc; thống nhất khuynh hướng Maoist với khuynh hướng Sô- Viết. Với chủ trương giải phóng miền Nam bằng võ lực Hồ Chí Minh và Lê Duẩn bắt đầu rơi vào bẫy của Mao Zedong.
Mao là người ghét cay ghét đắng Khrushchev và mạnh dạn tố cáo chủ nghĩa xét lại và đường lối sống chung hoà bình với Tây Phương của Khrushchev. Mao ghét Khrushchev vì ông này ra lịnh rút các chuyên viên kỹ thuật Nga về nước và không giúp cho Mao sản xuất bom nguyên tử.
Mao ghét Hoa Kỳ vì cản trở ông ấy thống nhất Taiwan bằng võ lực.
Hồ Chí Minh và Lê Duẩn có mẫu số chánh trị chung với Mao về ý muốn giải phóng miền Nam, vùng đất được Hoa Kỳ yểm trợ tích cực. Việc Mao ra lịnh pháo kích hải đảo Kinmen (Kim Môn) và Matsu ( Mả Tổ) và việc khởi động chiến tranh giải phóng miền Nam là sự chống đối của Mao và Hồ đối với với sự sống chung hoà bình với Phương Tây của Khrushchev. Lãnh tụ Liên Sô không thích thú với cuộc chiến tranh nhân dân ở miền Nam Việt Nam vì đó là chiến tranh theo chủ nghĩa Mao đi ngược lại đường lối sống chung hoà bình với các nước phương Tây. Tướng Nguyễn Chí Thanh, một vị tướng thân Trung Hoa, điều khiển Trung Ương Cục Miền Nam.
Thâm ý của Beijing là dùng Cộng Sản Việt Nam để giết người Việt Nam ở phía nam vĩ tuyến 17 và sau năm 1965 đánh nhau với Hoa Kỳ. Họ muốn dùng Cộng Sản Việt Nam giết người Việt Nam không Cộng Sản và người Hoa Kỳ để họ yên ổn sản xuất bom nguyên tử để trở thành một cường quốc quân sự đe doạ an ninh và hoà bình Đông Á. Việt Nam thống nhất sớm muộn gì cũng rơi vào quĩ đạo của Beijing. Cộng Sản Việt Nam giết hại đồng bào ruột thịt của mình, đổ máu vì phải đương đầu với một cường quốc quân sự và kinh tế, huỷ hoại tài nguyên quốc gia và nhân lực đất nước để trở thành một quốc gia chư hầu của Liên Sô rồi Trung Hoa Cộng Sản lại còn phải mang nợ và ơn nghĩa Liên Sô và Trung Hoa Cộng Sản! Công tác quan trọng của Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn là đánh đuổi hai đế quốc bạch chủng Pháp, Hoa Kỳ cho Trung Hoa tái lập ảnh hưởng ở Việt Nam và mở đường bành trướng sang các quốc gia Đông Nam Á khác.
Mộng bành trướng lãnh thổ của Mao Zedong (Mao Trạch Đông), Deng Xiaoping ( Đặng Tiểu Bình), Jiang Zemin (Giang Trạch Dân), Hu Jintao (Hồ Cẩm Đào), Xi Jinping (Tập Cận Bình) đều như nhau dẫu biết rằng Deng Xiaoping là nạn nhân của Mao trong Cách Mạng Văn Hoá và Xi Jinping tỏ ra bất kính đối với Jiang Zemin và Hu Jintao. Dưới thời Mao Zedong Trung Hoa xâm lăng Tây Tạng (1950), gây chiến tranh biên giới với Ấn Độ (1962) và Liên Sô (1969). Dưới thời Deng Xiaoping chiến tranh Việt- Trung bùng nổ năm 1979 ngoài biên giới và năm 1988 ngoài quần đảo Trường Sa.
Từ năm 1975 đến 1986 Lê Duẩn ngả hẳn theo Liên Sô nhưng phe thân Trung Hoa Cộng Sản ở Việt Nam vẫn đông hơn. Trường Chinh vẫn là nhân vật số 2 trong Bộ Chánh Trị sau Lê Duẩn mà thôi. Sự sụp đổ của chế độ Cộng Sản ở Đông Âu và Liên Sô làm cho Việt Nam lạnh chân. Sự phục luỵ Beijing trở nên trầm trọng hơn từ năm 1990 về sau. Dưới mắt các lãnh tụ Cộng Sản Trung Hoa, Việt Nam và Bắc Hàn là hai quốc gia từng triều cống Trung Hoa trong quá khứ. Cộng Sản Trung Hoa viện trợ cho Việt Minh trong chiến tranh kháng Pháp về võ khí, lương thực, thuốc men, cố vấn chánh trị và quân sự. Họ đưa quân tham chiến trong chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953). Cộng Sản Trung Hoa có vai trò chủ động trong hội nghị Panmunjom (Bàn Môn Điếm) về vấn đề Triều Tiên và hội nghị Genève về vấn đề Đông Dương. Sự qua phân Việt Nam năm 1954 do sáng kiến của Zhou Enlai mà ra. Cuộc chiến tranh Việt Nam lần thứ hai cũng do sự kích động của Beijing mà ra. Lê Duẩn hướng về Moscow vì Beijing không có võ khí tối tân để đương đầu với các oanh tạc cơ của Hoa Kỳ trên chiến trường miền Nam lẫn miền Bắc. Lê Duẩn muốn chứng tỏ ông là người Cộng Sản giáo điều như Hồ Chí Minh tức là xem Liên Sô là thành trì xã hội chủ nghĩa. Cũng có thể ông lo sợ chủ nghĩa bá quyền mà Mao Zedong và Deng Xiaoping trân quí nên sau khi hiệp ước hữu nghị Việt- Sô được ký kết năm 1978, Lê Duẩn mạnh dạn nói rằng: Biển Đông không phải là cái hồ của Trung Quốc.
Thời hậu Lê Duẩn là thời kỳ Việt Nam lệ thuộc Cộng Sản Trung Hoa nặng nề. Bang giao giữa Cộng Sản Trung Quốc và Cộng Sản Việt Nam phải dựa trên Bốn Tốt và Mười Sáu Chữ Vàng. Cố nhiên Cộng Sản Trung Hoa nhúng tay vào việc bố trí nhân sự trong đảng Cộng Sản Việt Nam và chánh quyền Cộng Sản từ trung ương cho đến địa phương. Một vài người Hoa không biết nói tiếng Việt hay người Hoa sinh ở Việt Nam điều khiển các bộ trong bóng tối. Trên lục địa Trung Hoa tổng bí thơ đảng Cộng Sản Trung Hoa là chủ tịch nước để việc giao thiệp với nước ngoài được dễ dàng hơn. Ở Việt Nam họ muốn phân tán quyền hành của tổng bí thơ đảng và dùng sự phân chia chức vụ lãnh đạo đảng Cộng Sản, chủ tịch nước và thủ tướng, cho ba người để họ dòm ngó và tranh giành quyền lực và quyền lợi lẫn nhau để trở nên ngoan ngoãn và trung kiên với Beijing (Bắc Kinh). Dĩ nhiên khi chọn người và bố trí người Beijing phải chọn người qua các tiêu chuẩn tối thiểu dưới đây:
  • có trí tuệ kém và tư cách kém
  • tài năng kém ngoại trừ khả năng thi hành những cuộc chém giết tàn bạo
  • có đức vâng lời tuyệt đối để ngoan ngoãn thi hành theo lịnh của Beijing
  • tham lam và độc ác với người đồng chủng của họ.
Hãy nhìn chánh sách diệt chủng và đồng hoá của người Trung Hoa ở Tây Tạng và Tân Cương trong thời đại ngày nay thì rõ. Một mặt họ dùng võ khí để giết hại người Tây Tạng và Tân Cương. Mặt khác họ đưa dân đến định cư, lấy vợ người Tây Tạng hay Tân Cương để hai vùng đất mênh mông này có tỷ lệ người Hán cao hơn người bản xứ trong một thời gian ngắn ngủi. Mặt khác họ xoá tan tôn giáo, văn hoá, tập tục của người bản xứ và bắt người bản xứ phải học Hán tự và nói tiếng Quan thoại như người Trung Hoa. Chủ nghĩa Mao do một người Khmer gốc Hoa là Pol Pot thực thi ở Cambodia trong 03 năm cầm quyền đã giết sạch 30% dân số Cambodia (1975 - 1978).
Việt Nam là một quốc gia đông dân so với Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông và Mãn Châu. Việt Nam có quá khứ đề kháng Trung Hoa. Chiến tranh Việt- Hoa năm 1979 và 1988 là cuộc chiến tranh giữa hai quốc gia Cộng Sản. Trung Hoa Cộng Sản trừng phạt Cộng Sản Việt Nam vì ngã theo Liên Sô. Do đó từ năm 1990 về sau Beijing có chánh sách tàn độc đối với Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Qua những nhà lãnh đạo Cộng Sản tay sai và bù nhìn Việt Nam, Trung Quốc chiếm 10,000 km 2 lãnh thổ dọc theo biên giới Việt- Hoa; gần 50% Vịnh Bắc Bộ và các đảo đá vôi trong vịnh; thuê đất trồng rừng ở miền bắc Bắc Bộ trong 50 năm; thuê bờ biển bắc Trung Bộ để lập nhà máy và nuôi cá; khai thác quặng bauxite ở Tân Rai, Lâm Đồng; thành lập phố Tàu ở Bình Dương ( Đông Đô Đại Phố) và các nơi khác trong nước như Vũng Áng, Hà Tĩnh, Đà Nẵng v. v. Người Trung Hoa từ đó đi lại trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Họ xem đó là những nhượng địa của họ. Họ đưa người ồ ạt sang Việt Nam, cưới vợ Việt Nam để sinh con mang dòng máu Hoa với quốc tịch Việt Nam. Việc Hán hoá người Việt Nam không khó khăn lắm vì Việt Nam chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa lâu đời, thích ăn cơm Tàu, đọc truyện Tàu, am tường lịch sử Tàu hơn lịch sử quốc gia mình. Nhiều phụ nữ Việt Nam lấy chồng Taiwan, Hồng Kông, Hoa lục hay Đại Hàn. Lấy chồng ngoại quốc được xem như là sự cải thiện đời sống. Phật Giáo ở Việt Nam do các sư tăng Trung Hoa truyền giảng. Kinh Phật được viết bằng chữ Hán. Nhiều nhân vật lịch sử Trung Hoa được thờ trong chùa hay được suy tôn thành Phật như Quan Công ( Guangong) được gọi là Phật Già Lam chẳng hạn. Những đình, chùa tân lập ngày nay đều đầy ắp chữ Hán khiến du khách ngoại quốc ngỡ rằng họ đang ở một vùng nào đó trên lãnh thổ Trung Hoa!
Mặc dù Beijing tạo ra những lãnh đạo Cộng Sản bù nhìn ở Việt Nam họ bao vây Việt Nam một cách chặt chẽ.
  1. Ở phía bắc họ lấn chiếm biên giới, thuê đất trồng rừng trong 50 năm. Họ chiếm gần 50% diện tích biển đảo trong Vịnh Bắc Bộ. Các dân tộc thiểu số ở miền Bắc đều xuất phát từ Trung Hoa. Tổng bí thơ đảng Cộng Sản Việt Nam Nông Đức Mạnh là người lãnh đạo tối cao của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là người Tày tức người Choang. Chính ông tự nhận như thế để được sự sủng ái của Hu Jintao (Hồ Cẩm Đào). Người Choang được hưởng qui chế tự trị ở Guangxi (Quảng Tây).
  2. Ở phía tây Trung Hoa Cộng Sản có mặt ở Tân Rai, Nhân Cơ; kiểm soát và khai quang đường mòn Hồ Chí Minh; viện trợ cho Lào và Cambodia để biến hai nước này thành quốc gia thù địch với CHXHCNVN.
  3. Sự thành lập Đông Đô Đại Phố ở Phú Chánh, Bình Dương, nhằm mục đích kiểm soát Chiến Khu C và Chiến Khu D. Các nghĩa địa mới do Trung Hoa Cộng Sản xây trên lãnh thổ Việt Nam có thể là những hầm chứa võ khí, tài liệu mật hay là địa điểm gặp gỡ để bàn những hoạt động bí mật.
  4. Đầu độc và tiêu diệt dân tộc Việt Nam qua các lãnh tụ Cộng Sản như Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Khiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Lê Đức Anh, Phùng Quang Thanh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Hoàng Trung Hải, Lê Hồng Anh, Trần Đại Quang, Hồ Xuân Sơn, Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn Chí Vịnh v. v. bằng chiến tranh. Viện Khổng Tử, tư tưởng Mao tiêu diệt trí thức và những thành phần có tư tưởng và nhiệt huyết đối với quê hương. Hoàng Trung Hải, một người gốc Hoa ở Thái Bình, là phó thủ tướng nắm giữ các bộ Kinh Tế, Công Thương, Nông Nghiệp, Tài Nguyên, đã trao cho Trung Hoa Cộng Sản độc quyền khai thác quặng vàng, bạc, manganese, chì, kẽm ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang nay được đề bạt làm bí thơ thành uỷ Hà Nội để chuẩn bị nắm chức tổng bí thơ đảng Cộng Sản Việt Nam như trường hợp Nguyễn Phú Trọng.
Trong một quốc gia an bình suốt 41 năm qua các tướng lãnh được vinh thăng đều là tướng Công An. Lê Hồng Anh là đại tướng Công An là uỷ viên Bộ Chánh Trị được Xi Jinping tiếp xúc trước tiên vào năm 2012 trước khi ông trở thành Chủ Tịch Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc. Trần Đại Quang, đại tướng trông coi bộ Công An, trở thành Chủ Tịch Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Có ba tướng Công An trở thành Uỷ Viên Bộ Chánh Trị vào năm 2015. Công lao của họ là đàn áp những người dám nói Tây Sa, Hoàng Sa thuộc Việt Nam, những cựu quân nhân tưởng niệm các quân nhân tử trận trong chiến tranh Việt- Hoa năm 1979. Thủ tướng Phan Văn Khải, một cán bộ do Liên Sô đào tạo, không triệt để ủng hộ các hiệp ước Việt- Hoa 1999 và 2000 nên bị mệnh danh là người tham nhũng nhất nước. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người mị dân, giả vờ chống Beijing, nên bị Nguyễn Phú Trọng hạ bệ. Để ngăn chặn Nguyễn Tấn Dũng ra tranh chức tổng bí thơ đảng thay thế ông, các tay em của Nguyễn Phú Trọng nói rằng người miền Nam không biết lý luận. Được hậu thuẫn của Beijing Nguyễn Phú Trọng thắng trong cuộc tranh chấp quyền hành với Nguyễn Tấn Dũng. Nguyễn Phú Trọng xem đó là sự thắng lợi của Cộng Sản miền Bắc đối với Cộng Sản miền Nam. Việc đưa Đinh La Thăng vào làm bí thư thành uỷ TP Hồ Chí Minh (Sài Gòn) là thông điệp ngầm của các Cộng Sản miền Bắc về sự hậu thuẫn của Beijing đối với họ.
Beijing đào sâu sự chia rẽ Bắc- Trung- Nam trong hàng ngũ các đảng viên Cộng Sản. Chánh quyền Cộng Sản Việt Nam làm vừa lòng Beijing bằng cách ru ngủ dân chúng say đắm trong rượu chè, đĩ điếm, cờ bạc và nghiện ngập ma tuý. Tội nặng nhất ở Việt Nam hiện nay là tội yêu nước tức chống Trung Hoa. Việc chặt cây xanh ở Hà Nội hay đập phá khu thương mại cổ xưa ở Sài Gòn là Grand Magasin de Charner đều xuất phát từ lịnh ngầm của Beijing nhằm huỷ hoại môi trường cây xanh trong thành phố sẵn có từ thời Pháp và xoá sạch dấu vết văn hoá và kiến trúc Tây Phương ở Việt Nam.
Cộng Sản Việt Nam mừng chiến thắng đế quốc Pháp với Điện Biên Phủ (1954) và đế quốc Mỹ với Chiến Dịch Hồ Chí Minh (1975) nhưng không dám đề cập đến vị anh hùng dân tộc nào đánh đuổi quân xâm lăng Trung Hoa hay tưởng niệm các chiến sĩ bị quân Trung Hoa Cộng Sản giết năm 1979 hay 1988 ngoài biên giới và ngoài Biển Đông. Chữ quốc ngữ liên hệ đến văn hoá Tây Phương dần dà sẽ được thay thế bằng Hán tự như thời kỳ tiền Pháp thuộc trong tiến trình đồng hoá toàn dân tộc. Chánh sách đồng hoá được tiến hành song song với chánh sách diệt chủng bằng:
  • thức ăn, thức uống có tỷ lệ độc chất nhằm làm cho cơ thể người dùng bị suy nhược và sống trong tình trạng dở sống dở chết.
  • cắt đứt các nguồn sống. Ngư dân đánh cá ngoài biển bị tàu Trung Hoa Cộng Sản đụng chìm hay bị mất tàu, mất cá đánh bắt được. Vào tháng 04 năm 2016 cá, tôm, sò, ốc chết dọc duyên hải Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên. Người ta cho rằng cá chết vì nhiễm độc chất. Cá biển chết hàng loạt. Vài nơi ở Nam Bộ cá sông cũng chết hàng loạt khiến người ta lo sợ không dám ăn cá vì sợ bị nhiễm độc! Hậu quả tâm lý này không kém phần tai hại làm cho hoạt động ngư nghiệp gần như bị tê liệt trong khi người Việt Nam ăn nhiều cá hơn thịt và món ăn căn bản của người Việt Nam là nước mắm làm từ cá!
  • Việt Nam không còn là một quốc gia sản xuất lúa gạo để tự cung đừng nói chi đến xuất cảng. Nông nghiệp cần phải có nước ngọt. Châu thổ sông Hồng có sông Hồng, nguồn cung cấp nước ngọt. Châu thổ sông Cửu Long có dòng Cửu Long. Cả hai dòng sông quan trọng này đều bắt nguồn từ Yunnan ( Vân Nam) và Tây Tạng. Trung Hoa Cộng Sản xây nhiều đập trên hai dòng sông trên khiến cho miền hạ lưu của sông Hồng và sông Cửu Long thiếu nước ngọt. Trên đồng bằng sông Cửu Long nước mặn lấn sâu vào nội địa hàng trăm cây số. Đất nứt nẻ vì hạn hán và thiếu nước. Nước mặn làm cho đất cằn cỗi. Lúa vàng khô. Các nhà máy ở Trung Hoa xả hoá chất độc hại vào sông Hồng. Sông Cửu Long dài nên họ thiết lập nhiều đập thuỷ điện trên lãnh thổ họ, giúp cho Thái Lan, Miến Điện, Lào và Cambodia xây đập thuỷ điện để góp phần vào việc bóp nghẹt kinh tế nông nghiệp Việt Nam. Trong 20 năm qua dân nông thôn ra thành thị tìm công ăn việc làm vừa có nhiều tiền vừa đỡ nhọc nhằn hơn làm việc đồng áng. Nhiều nơi người ta bán đất cho các công ty ngoại quốc như Trung Hoa Cộng Sản, Singapore, Taiwan (Đài Loan), Hồng Kông, Đại Hàn, Nhật Bản để lập các nhà máy kỹ nghệ. Nông nghiệp bị hy sinh phần nào giữa lúc đất đai bạc màu, thiếu nước, nước bị nhiễm độc và mặn dần (sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Cửu Long) trong khi Việt Nam chưa phải là một nước kỹ nghệ. Với đường lối độc hiểm của Trung Hoa Cộng Sản nạn đói có thể xảy ra ở Việt Nam ngay tại vựa lúa Nam Bộ trong một tương lai không xa.
Ở Việt Nam, Beijing không cần một Pol Pot ra tay giết hại 30% dân số Cambodia trong 03 năm cầm quyền như đã thấy. Họ cần dựng lên một tập đoàn lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam để thi hành việc tiêu diệt cả một dân tộc 92 triệu người trong một khoảnh khắc thời gian. Điều đáng lưu ý là đa số dân chúng, các nhà trí thức, thanh niên, sinh viên học sinh, các nhà lãnh đạo tôn giáo đều im lặng như âm thầm chấp nhận tương lai hẩm hiu của đất nước và dân tộc.
 
****
 
Nhiều người cho rằng Trung Hoa Cộng Sản xâm lăng Việt Nam. Có người cho rằng, theo hội nghị Chengdu (Thành Đô) năm 1990, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng đồng ý biến Việt Nam thành một tỉnh, quận hay vùng tự trị của Trung Hoa.

Trung Hoa Cộng Sản xâm lăng Việt Nam?
Chúng tôi nghĩ rằng Trung Hoa Cộng Sản không cần đổ máu để xâm lăng Việt Nam. Tại sao phải xâm lăng trong khi chánh quyền Cộng Sản Việt Nam do họ tạo ra đã ngoan ngoãn thi hành các chỉ thị của họ? Nếu dùng võ lực để xâm lăng họ sẽ gặp phản ứng quốc tế và sự đề kháng của người Việt Nam. Nếu có thắng họ cũng bị đổ máu không ít. Năm 1979 họ đổ nhiều máu nhưng không đạt thắng lợi rõ ràng. Trong 20 năm qua họ đã đưa bao nhiêu người sang làm việc, cư trú lâu dài ở Việt Nam? Họ đã thuê đất, thuê bờ biển dài hạn, độc quyền khai thác quặng mỏ, lập phố Tàu khắp ba miền đất nước, xây nghĩa trang liệt sĩ Cộng Sản Trung Hoa trên lãnh thổ Việt Nam, lập thành phố với tên đường bằng chữ Hán; lập nghĩa địa và cấm không cho người Việt vào v. v. Vậy còn xâm lăng làm gì? Đó là cảnh nước đã mất mà không ai hayGiống như vua An Dương Vương kết nghĩa thông gia với kẻ thù cũ là Chao To (Triệu Đà), chứa rể (con của kẻ thù) trong nhà để mất cái nỏ thần đến nỗi giặc đã đến nhà mà không hay biết. Lối thoát cuối cùng là nhảy xuống biển tự tử.
Vua An Dương Vương làm mất nước vì thiếu cảnh giác, ngây thơ khi nghĩ rằng kết nghĩa thông gia với kẻ thù thì có hoà bình, bang giao thân thiện giống như các lãnh tụ đảng Cộng Sản Việt Nam tin rằng cùng đảng, cùng chủ nghĩa Cộng Sản với Trung Hoa thì được hoà bình, được sống trong thế giới đại đồng, tứ hải giai huynh đệ. Lý luận quá nhiều dễ trở nên ngây thơ trên lãnh vực chánh trị. Luật sinh tồn tự nhiên bất luận thời gian và không gian nào cũng dựa trên nguyên lý:
Mạnh được; yếu thua.
Khôn sống; dại chết.
Người ngu và người tham lam, dễ tin chắc chắn bị người khôn gạt gẫm. Người yếu lúc nào cũng bị người mạnh hiếp đáp. Đó là qui luật tất yếu không sao tránh khỏi được. Có phải người yếu nào cũng bị người mạnh tiêu diệt không? - Không, nếu họ khôn ngoan, biết đoàn kết, cầu tiến và khôn khéo trong việc bang giao với các quốc gia khác. Nhật Bản, Na Uy, Thụy Điển, Đan Mạch, Hoà Lan, Thuỵ Sĩ, Do Thái, Singapore đều là những nước nhỏ hay ít dân vẫn hiện hữu vững mạnh bên cạnh các quốc gia to lớn và hùng mạnh.
Vua An Dương Vương hối hận vì gây ra cảnh mất nước bằng sự tự sát của ông. Dân tộc Việt gánh chịu cảnh Bắc thuộc 11 thế kỷ liền!!
Ông Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng tự nguyện làm nghĩa vụ quốc tế bằng xương máu, mồ hôi và nước mắt của Việt tộc và tài nguyên xứ sở để bảo vệ hoà bình và hiện đưa đất nước vào quĩ đạo Cộng Sản Liên Sô và Trung Hoa Cộng Sản. Họ được đề cao, ngưỡng mộ, tôn thờ và không hề có mặc cảm tội ác và tội lỗi trước hồn thiêng sông núi, vong linh các anh hùng dân tộc và 11 triệu sinh linh gục ngã qua hai cuộc chinh chiến sau đệ nhị thế chiến. Hồ Chí Minh được gọi là Cha Già Dân Tộc, Washington của Việt Nam. Lê Duẩn được gọi là đèn manchon 500 bougies! Trường Chinh là đại lý thuyết gia! Nguyễn Văn Linh được khen đã đọc và hiểu Les Misérables của Victor Hugo và có tinh thần Đổi Mới. Nguyễn Phú Trọng là giáo sư đại học về chủ nghĩa Marx- Lenin học ở Liên Sô! Nhưng không biết vì sao dân chúng gọi ông là Trọng lú? Lê Khả Phiêu có vườn rau được tưới bằng nước lọc; dinh thự có trống đồng Lạc Việt. Đỗ Mười tự hào là đao thủ phủ trong chế độ Cộng Sản. Nông Đức Mạnh là vua Việt Nam gốc người Tày có cung điện nguy nga; ghế nạm vàng.
Lenin dùng chủ nghĩa Marxism Lenin hoá để chinh phục các quốc gia thuộc địa nghèo đói dưới sự cai trị của các đế quốc Anh, Pháp, Mỹ, Hoà Lan bằng xương máu của người bản xứ dưới sự lãnh đạo của những cán bộ do Đệ Tam Quốc Tế đào tạo như Hồ Chí Minh, Trần Phú, Nguyễn Khánh Toàn, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Dương Bạch Mai, Trần Văn Giàu ở Việt Nam chẳng hạn.
Mao Zedong và những người kế nghiệp ông như Deng Xiaoping, Jiang Zemin, Hu Jintao, Xi Jinping dùng chủ nghĩa Marx- Lenin Hán hoá thành chủ nghĩa Mao (Maoism) để chiếm Việt Nam và Hán hoá dân tộc Việt Nam mà không cần phải dùng võ khí và đổ máu vô ích. Và họ đã đạt kết quả mỹ mãn từ năm 1990 đến nay.

Đến năm 2020 nghĩa là còn 04 năm nữa Việt Nam có trở thành một tỉnh, quận hay vùng tự trị của Trung Hoa Cộng Sản không?
Ở Đông Á Việt Nam và Bắc Hàn là hai quốc gia lệ thuộc Trung Hoa Cộng Sản. Trong chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953) và chiến tranh Việt Nam lần thứ nhất, Trung Hoa Cộng Sản đóng vai trò chủ động tại hội nghị Panmunjom (1953) và Geneva (1954). Về phương diện địa lý Bắc Hàn có biên giới chung với Trung Hoa và Liên Sô. Kim Il Sung (1912 - 1994) gia nhập đảng Cộng Sản Trung Hoa, là sĩ quan do Liên Sô ủng hộ lên nắm chánh quyền năm 1948. Nhưng ông tỏ ra có sáng kiến và độc lập khi không dùng cờ đỏ Búa Liềm làm đảng kỳ Cộng Sản mà dùng cờ đỏ Búa, Liềm và Cây Bút trong khi Hồ Chí Minh, Trần Phú và các lãnh tụ Cộng Sản Việt Nam chủ trương tiêu diệt TRÍ, PHÚ, ĐỊA, HÀO. Bắc Hàn thiếu ăn nhưng họ có đội ngũ khoa học gia và kỹ thuật gia có khả năng đóng tàu chiến, tàu ngầm, sản xuất bom nguyên tử, hoả tiễn. Bắc Hàn rộng 120,500 km2 với gần 25 triệu dân so với 330,000 km2 và 92 triệu dân Việt Nam. Nhưng Việt Nam chưa sản xuất được con vít đạt tiêu chuẩn quốc tế! Gạt bỏ chuyện thương ghét Kim Jong Un vì mái tóc chọc giận người nhìn hay vì tính hung ác của ông ta, chúng ta thấy vị lãnh đạo trẻ và béo phì này có cá tính và sĩ diện hơn các lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam. Kim Jong Un không xem Bắc Hàn là chư hầu của Trung Hoa Cộng Sản nên không đến Beijing để được Xi Jinping chúc phúc mặc dù về phương diện kinh tế Bắc Hàn còn tuỳ thuộc lục địa Trung Hoa rất nhiều. Việc Kim Jong Un ra lịnh giết người chồng của cô của ông và cố vấn của ông khi mới nhậm chức vào cuối năm 2011 vì ông này thân Beijing và dành cho Beijing nhiều đặc ân kinh tế. Trong đại hội đảng Lao Động Triều Tiên lần thứ 7 triệu tập ngày 06 - 05 - 2016 đảng Cộng Sản Trung Hoa không được mời tham dự đại hội. Những điều nói trên không thể tìm thấy nơi bất cứ vị lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam nào từ Hồ Chí Minh đến Nguyễn Phú Trọng. Nó cũng nói lên rằng Kim Jong Un không nhận quyền hành do Beijing ban bố như các nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam. Bắc Hàn tự cô lập. Việt Nam bang giao với tất cả các nước trên thế giới. Bắc Hàn không khiếp sợ Trung Hoa Cộng Sản như Việt Nam. Tại sao Cộng Sản Việt Nam khiếp sợ? - Vì họ ý thức được khả năng thực của họ và quyền hành, sự giàu có của họ từ đâu mà có. Dưới chế độ quân chủ phong kiến, Việt Nam triều cống Trung Hoa ba năm một lần. Nhưng không vị vua Việt Nam nào sang Trung Hoa chầu hoàng đế Trung Hoa cả. Như vậy ông vua phong kiến có hùng tâm hơn Bác Hồ và những người kế vị ông.
Chúng ta đang sống vào thế kỷ XXI. Trung Hoa Cộng Sản sẽ không biến Việt Nam thành một thuộc địa. Làm như vậy họ mang tiếng là một đế quốc. Sự thâm hiểm của họ là dành cho Việt Nam một chế độ tệ hại hơn chế độ thuộc địa. Nếu họ biến Việt Nam thành thuộc địa hay thành tỉnh, quận của Trung Hoa thì họ có trách nhiệm nuôi 92 triệu dân. Họ phải xây trường học, bịnh viện, cầu cống, đường sá, bến cảng, phi trường, nghĩa địa như các đế quốc Bạch Chủng đã làm ở các thuộc địa của họ. Trên lục địa Trung Hoa có từ 500 triệu đến 800 triệu dân nghèo khổ và thiếu ăn. Beijing chỉ nghĩ đến khai thác bóc lột chớ đâu nghĩ đến việc tự tạo cho mình thêm gánh nặng xã hội dành cho người phi Hán tộc.
Trên thực tế họ hiện diện khắp ba miền đất nước Việt Nam. Đâu đâu họ cũng có cơ sở và người của họ. Những người được họ bố trí có thể là người Việt trung kiên với họ, người Việt gốc Hoa hay người Hoa từ lục địa phái sang. Họ hưởng mọi lợi lộc từ Việt Nam. Đối với Trung Hoa Cộng Sản duy trì Việt Nam là một quốc gia trên thế giới có lợi cho họ nhiều hơn:
  1. Nếu Việt Nam là một quốc gia độc lập, một thành viên của LHQ, Việt Nam có một phiếu tại diễn đàn LHQ. Phiếu ấy là phiếu của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc.
  2. Chánh phủ ở Việt Nam là chánh phủ đặt dưới sự điều khiển và mệnh lệnh của họ. Việt Nam là thị trường tiêu thụ hàng hoá do Trung Hoa lục địa sản xuất cũng như các loại hàng bị các nước khác hoàn trả vì nhiều nguyên nhân khác nhau. Việt Nam là nơi họ khai thác tài nguyên khoáng sản, là bao lơn kiểm soát Biển Đông và là bàn đạp kiểm soát các nước Đông Nam Á lục địa và quần đảo bao quanh bởi Tây Thái Bình Dương và Đông Ấn Độ Dương.
  3. Là một quốc gia, Việt Nam được hưởng sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế. Tất cả sự trợ giúp ấy rơi vào tay Trung Hoa Cộng Sản. Việt Nam là một thành viên TPP (Trans Pacific Partnership: Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương). Giả sử hàng hoá Việt Nam được hưởng quan thuế biểu nhẹ thì Trung Hoa Cộng Sản đưa hàng hoá của họ sang Việt Nam và dán nhãn Việt Nam để bán cho các nước thành viên của TPP. Nếu hàng có phẩm chất tồi thì Việt Nam gánh chịu trách nhiệm vì đó là hàng Made in Việt Nam.
  4. Tồi tệ nhất là Trung Hoa Cộng Sản biến Việt Nam thành một quốc gia gián điệp lấy đủ các loại tin tức tình báo, chánh trị, kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật của các quốc gia thù nghịch hay cạnh tranh với Trung Hoa Cộng Sản như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ, Nga về cho họ. Họ dùng người Việt Nam hay có quốc tịch Việt Nam đứng môn bài tổ chức buôn người, buôn ma tuý, trồng cần sa v. v. Lợi lộc do họ nắm giữ. Trách nhiệm trước luật pháp nếu bị phát hiện thì người Việt Nam gánh chịu. Vài nhà chánh trị Hoa Kỳ nghĩ đến việc bán võ khí sát thương để Cộng Sản Việt Nam có đầy đủ võ khí tối tân để đánh nhau với Trung Hoa Cộng Sản ngày càng hung hãn ngoài Biển Đông. Không biết các nhà chánh trị nói trên dựa vào yếu tố nào để có thái độ lạc quan như thế. Chánh quyền địa phương lẫn trung ương Cộng Sản Việt Nam không dám nêu đích danh tàu Trung Hoa Cộng Sản bắn phá, đắm chìm tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam mà chỉ nói là tàu lạ. Hà Nội không dám kiện Trung Hoa Cộng Sản ra Toà Án Trọng Tài Quốc Tế như Phi Luật Tân đã làm. Họ mua võ khí của Ấn Độ, Do Thái và tàu chiến, tàu lặn, phi cơ, hoả tiễn của Nga sao không dùng chúng để bảo vệ biển và ngư dân mà phải đợi đến việc mua võ khí sát thương của Hoa Kỳ? Có thể võ khí sát thương sẽ được dùng để đàn áp những người biểu tình chống Trung Hoa Cộng Sản trong nước hay được đưa sang lục địa Trung Hoa để làm mẫu sản xuất hầu đe doạ các nước trong vùng để bảo vệ Lưỡi Bò Chín Đoạn hữu hiệu hơn chăng?
Đó là bức tranh lịch sử Việt Nam dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản Việt Nam trong 62 năm ở miền Bắc và 41 năm ở miền Nam. Dưới ánh sáng chỉ đạo của ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam, Việt Nam ngày nay không thể so sánh với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Bắc Hàn và Cuba là hai nước Cộng Sản ít dân, nghèo đói nhưng Bắc Hàn có nhiều khoa học gia và kỹ thuật gia có khả năng. Trong Thế Vận Hội London năm 2012 Bắc Hàn được 04 huy chương vàng và 02 huy chương đồng (cử tạ và Judo). Cuba đào tạo nhiều bác sĩ có khả năng chuyên môn cao. Tổng thống Hugo Chavez của Venezuela bị bịnh ung thư đã đến Cuba để chữa trong khi Võ Văn Kiệt, vợ hai của Lê Duẩn bịnh phải sang Singapore chữa. Nguyễn Bá Thanh phải sang Hoa Kỳ và Phùng Quang Thanh phải sang Pháp chữa bịnh! Trong Thế Vận Hội London năm 2012 Cuba có 05 huy chương vàng; 03 bạc; 07 đồng về các bộ môn vật lộn, bắn súng, Judo, quyền Anh, võ Taekwondo, cử tạ. Việt Nam không hơn Cambodia và Lào về trật tự và sạch sẽ đường phố. Sau 30 năm chiến tranh Việt Nam có thêm nhiều chủ mới. Xã hội có thêm nhiều bất công mới, giai cấp giàu có và thống trị mới. Ba triệu người Việt Nam vĩnh viễn ly hương.
Viễn ảnh tương lai đất nước và Việt tộc đen tối như được mô tả sơ lược ở phần trên. Đó là công lao to lớn của Bác Hồ và tính ưu việt đảng Cộng Sản hay sao? 
 
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét