Bài đăng nổi bật

Nghe 100 Truyện ngắn của Tràm Cà Mau

  Nghe 100 Truyen Ngan Cua Tram Ca Mau ( Tac gia không giữ bản quyền.) bấm mỗi dòng dưới đây để nghe một truyện: Tuoi Gia La Tuoi Sung Suong...

Thứ Sáu, 22 tháng 12, 2017

THẢO MỘC TRỊ VIÊM KHỚP XƯƠNG TRÊN THẾ GIỚI -PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.


Men goi cac em bai viet dinh kem de doc vao mua lanh.
GIANG SINH VUI VE
Van Su Lanh
Thay Lan
phamdinhlan (david)



From: David Pham <davidlanpham@me.com>
Sent: Thursday, December 14, 2017 5:13 PM
To: David Pham
Subject: Pham Dinh Lan - thao moc tri viem khop xuong tren the gioi
 
THẢO MỘC TRỊ VIÊM KHỚP XƯƠNG TRÊN THẾ GIỚI

http://art2all.net/tho/phamdinhlan/phamdinhlan_thaomoctriviemkhopxuong.html


Pham Dinh Lan - thao moc tri viem khop xuong tren the gioi

THẢO MỘC TRỊ VIÊM KHỚP XƯƠNG TRÊN THẾ GIỚI
          Viêm khớp xương là chứng bịnh thường thấy trên thế giới. Đa số người bị chứng này là nữ phái. Tên chứng viêm khớp xương trong Tây Y là Rheumatoid arthritis. 
 
Hệ thống miễn nhiễm rối loạn tấn công nhầm các mô trong cơ thể ảnh hưởng đến các khớp xương chân, tay, bàn tay, bàn chân, vai, gây sưng phù và đau nhức khó chịu. Xương bị rỗng, các khớp xương bị biến dạng. Các tế bào bạch huyết cầu len vào các khớp xương tạo ra proteins TNF- alpha (Tumor necrosis factor alpha) và interleukin-1. Theo thời gian những proteins nầy tấn công các mô lành mạnh gây viêm phương hại đến sụn, xương và các mô liên hệ đến các khớp xương.
 
Các loại thảo mộc được dùng để trị viêm khớp xương đại để gồm có: nha đam, gừng, nghệ, vỏ cây liễu, dây lôi công, quế, cam thảo v.v. Cùng một loại thảo mộc việc chữa trị có khi giống nhau có khi khác nhau tùy từng địa phương. Việc trị bịnh giống như cuộc chiến đấu chống giặc thù nghĩa là phải kết hợp với nhiều phương tiện khác nhau để được chiến thắng. Yếu tố quyết định chiến thắng sau cùng là lòng dũng cảm và sự quyết thắng.. 
 
****

NHA ĐAM
 
Aloe vera
Gia đình: Liliaceae

 
          Nha đam hay lô hội là một loại cây cao lối 60- 70 cm; lá mọng nước, có gai ngoài rìa. Hoa màu vàng cam mọc thẳng đứng như hoa sống đời (trường sinh) Trái có nhiều hột nhỏ.
 
Tên khoa học của nha đam là Aloe vera thuộc gia đình Liliaceae. Tên gọi thông thường:
Quốc Gia
Tên Gọi
Việt Nam
Nha đam, Lô hội
Trung Hoa
Lu hui (Lô hội)
Anh
burn plant (trị phỏng), lily of the desert (huệ sa mạc), laxative (nhuận trường)
Hindi (Ấn)
Ghee kumari (vì làm trẻ phụ nữ)
Sanskrit
Kumari (trẻ trung hoá nữ giới)
Pháp
Aloès

Cây nha đam gốc ở bán đảo Á Rập, Nam Phi và quần đảo Cape Verdes. Nó được tìm thấy nhiều dọc theo bờ biển trên các hải đảo Thái Bình Dương, Địa Trung Hải, Ấn Độ Dương và Mỹ Châu nhiệt đới. Ở Việt Nam nha đam được tìm thấy nhiều dọc theo bờ biển khô hạn từ Phan Rang xuống Phan Thiết. Người ta trồng nha đam quanh nhà để lấy lá nấu chè hay để cầm máu, bị phỏng lửa hay phỏng nước sôi hay đắp trên mắt khi bị viêm.

Cây nha đam được đề cập trong cổ thư Ai Cập vào thế kỷ XVI trước Tây Lịch. Nữ hoàng Nefertiti (thế kỷ XIV trước Tây Lịch) và nữ hoàng Cleopatra (69- 30 trước Tây Lịch) dùng nha đam làm thuốc bảo vệ cho da đẹp không nhăn. Trong y thư De Materia Medica (70- 79 sau Tây Lịch) cây nha đam được danh sư Dioscorides đề cập đến.

Tương truyền rằng Alexander Đại Đế xứ Macedonia thấy có nhiều cây nha đam trên đảo Socotra trong Ấn Độ Dương. Người ta cho rằng Alexander Đại Đế nghe theo lời khuyên của nhà hiền triết Aristotle đánh chiếm đảo Socotra để gặt lá nha đam để chữa vết thương cho binh sĩ. Như vậy Ai Cập và Hy Lạp đã sớm dùng nha đam trong y học trị liệu.

Người Do Thái học kinh nghiệm này từ người Ai Cập khi họ sống lưu lạc ở đó. Trong Cựu Ước Kinh phần nói về vua Solomon (970- 933 trước Tây Lịch) có đề cập đến nha đam như một hương liệu. Nhựa của nha đam màu vàng và có vị đắng.

Các thầy thuốc Trung Hoa để ý đến dược tính của cây nha đam từ thế kỷ XI. Họ dùng nha đam để trị ghẻ, sốt và trị phỏng. Lá nha đam và lá sống đời (trường sinh) Kalanchoe pinnata có dược tính tương tự nhau. Dược tính của lá trường sinh có vẻ trội hơn lá nha đam nên được các dân tộc khác nhau trên thế giới truyền tụng. Lá nha đam có thể hư thối. Lá trường sinh già rơi xuống đất sẽ có hàng chục cây nhỏ mọc lên từ các răng của ngoài rìa lá. Vì vậy lá trường sinh còn được gọi là lá đả bất tử (đánh không chết), lạc diệp sinh căn (lá rụng ra rễ, chứng tỏ sức đề kháng rất mạnh của lá trường sinh).

Người Nhật dùng lá nha đam để chữa vết thương cho các hiệp sĩ (samurai).

Trên tàu, Christopher Columbus trồng nhiều cây nha đam để chữa vết thương cho các thủy thủ. Ông cho rằng có 04 loài thảo mộc cần thiết cho loài người là: 
1. lúa mì 
2. nho 
3. trái và dầu ô- liu 
4. lá nha đam.

Mahatma Gandhi kéo dài cuộc tuyệt thực ở Nam Phi nhờ khám phá tính năng trị liệu đặc biệt của lá nha đam.

Đặc tính:
- kháng viêm, kháng nấm, kháng khuẩn và gây tê
- trị ung thư (thí nghiệm có kết quả), lãi, hoàng đản,viêm gan, táo bón, béo phì, sưng gan, sưng lá lách, bướu, thuốc nhuận trường, đau khớp xương, hạ máu đường, hạ mỡ trong máu (uống- phần cơm màu trắng trong và phần nhựa màu vàng có vị đắng). 
- trị hói đầu (alopecia), phỏng (lửa, nước sôi), thoa trên da làm căng da, thoa trên vết nhăn, đắp vào mắt bị viêm, cầm máu, trị vết thương, làm thuốc gội đầu, súc miệng, kem thoa da (thoa ngoài da).
- Thành phần hóa học: acetylated mannans, polmannans, anthraquinone C- glycosides, enthrones và anthraquinones, lectins, sinh tố A, B1. B2, B6, B12, C, E và lối 20 khoáng sản.

Phụ nữ có thai không được dùng vì khả năng kháng trùng của nha đam rất mạnh nên có thể gây trụy thai.
 

LÔI CÔNG ĐẰNG
 
Tripterygium wilfordii
Gia đình: Celastraceae

          Lôi công đằng hay dây lôi công đã được người Trung Hoa dùng trị các chứng bịnh hiểm nghèo trên 2000 năm nay. Việc dùng dây lôi công trị viêm khớp xương rất kết quả dựa trên cơ sở lấy độc trị độc vì lá và hoa dây lôi công có nhiều độc chất. Nam bịnh nhân bị viêm khớp xương có thể trị khỏi bịnh bằng dây lôi công nhưng có thể bị phản ứng phụ: giảm tinh trùng và có thể rơi vào trạng thái vô tự (sterility- childlessness). Nữ mất kinh nguyệt v.v.

Tên khoa học của lôi công đằng là Tripterygium wilfordii thuộc gia đình Celastraceae. Tên gọi thông thường:
Quốc Gia
Tên Gọi
Việt Nam
Dây lôi công, Lôi thần đằng
Trung Hoa
Lei gong deng (Lôi công đằng)
Anh
Thunder God vine; Thunder Duke vine (Duke: quận công; Thunder: thiên lôi, sấm sét; chữ Lôi Công đọc từ Lei Gong của Trung Hoa được người Anh dịch thành Thunder Duke vine); Yellow vine (hoàng đằng <huang deng>). Có dây hoàng đằng khác với lôi công đằng này.
Pháp
Tonnerre de la vigne de Dieu (dây Thần Sấm)
Nhật
Raikoto

Dây lôi công được tìm thấy nhiều ở Trung Hoa, Nhật, Triều Tiên. Lá xanh rất đẹp. Hoa màu trắng. Hoa Y dùng lôi công đằng trị ung thư, viêm gan, bịnh thận, viêm khớp xương v.v. Lôi công đằng có độc chất. Dùng quá liều rất nguy hiểm.

Thành phần hóa học của lôi công đằng : Có triptolide C20 H24 O6, quinone triterpene C30 H48. Triptolide chữa u bướu có kết quả rõ rệt nhưng có thể gây chứng vô tự cho nam giới. Thí nghiệm trên chuột cho thấy triptolide chữa u bướu có kết quả tốt (Hoa Kỳ).

 

NGƯU BÀNG
 
Arctium lappa
Gia đình: Asteraceae

          Ngưu bàng là một loại cây hoa thuộc gia đình hoa cúc, hoa hướng dương. Cây cao từ 1- 2 m. Lá rộng, gợn sóng, có răng cưa thưa. Mặt dưới của lá có lông mịn. Hoa màu tím bao bọc bởi nhiều tia xanh trông như gai. Hoa có lông như gai bám vào lông trừu khi đi ngang qua cây ngưu bàng.

Ngưu bàng là thảo mộc miền ôn đới và bán nhiệt đới được tìm thấy nhiều ở Bắc Âu, vùng Địa Trung Hải từ Tây Á sang Trung Hoa, Nhật, Ấn Độ và vài nơi ở miền Bắc Việt Nam.

Tên khoa học của ngưu bàng là Arctium lappa thuộc gia đình hoa cúc Asteraceae hay Compositae. Tên gọi thông thường:
Quốc Gia
Tên Gọi
Việt Nam
Ngưu bàng
Trung Hoa
Niu bang (âm thành ngưu bàng)
Anh
Burdock
Pháp
Racine de bardane
Nhật
Gobo

Ngưu bàng có củ màu trắng, vị ngọt và nóng. Củ ngưu bàng có thể dài cả 1 m ăn sâu dưới đất.

Củ ngưu bàng có: K, sợi, Ca, chất nhờn, amino acid, polyphenols
Trái có arcitine. 
Lá có arctiopicrine C19 H26 O6 kháng khuẩn, kháng trùng rất mạnh. 
Hột có hoạt chất kháng ung thư, kháng viêm. Chất arctigenin C20 H22 O6 giúp gia tăng trí nhớ, kháng viêm (thí nghiệm). 
Củ có inulin C6 H10 O5 dùng trong bánh mì dành cho người bị bịnh tiểu đường hay trong thuốc trị bịnh về thận. Củ có sinh tố C, sinh tố B6, nhiều Fe, Mg v.v.
Củ, hột và lá ngưu bàng đều được dùng làm thuốc nhuận tiểu, tẩy độc trong máu, trị ung nhọt ngoài da, làm cho vết thương sớm tựu mủ, trị thống phong (gout), viêm khớp xương, sưng phổi, sốt xuất huyết, sởi, trái rạ.


CÂY LIỄU RŨ
 
Salix babylonica
Gia đình: Salicaceae

          Cây liễu rũ được tìm thấy nhiều trên Đường Tơ Lụa (Silk Road) nối liền lục địa Á- Âu, vùng Babylonia cổ, các thành phố lớn ở Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên v.v.

Cây liễu rũ cao lối 20 m; cánh rũ xuống đất. Lá nhỏ, giẹp và nhọn. Hoa đuôi sóc màu vàng nhạt.

Tên khoa học của cây liễu rũ là Salix babylonica thuộc gia đình Salicaceae. Tên gọi thông thường:
Quốc Gia
Tên Gọi
Việt Nam
Liễu, liễu rũ
Trung Hoa
Liu shu (Liễu thụ)
Anh
Weeping willow, Peking willow (Liễu Bắc Kinh), Babylon
willow (Liễu Babylon)
Pháp
Saule pleureur
Nhật
Yanagi
Do Thái
Gharab

Công dụng:
1. trồng làm cảnh
2. lấy gỗ; nhánh dùng để đan rổ liễu (wicker basket)
3. chống xâm thực; giúp tái tạo rừng vì cây liễu tăng trưởng rất nhanh
4. Cây liễu có nhiều tannins và salicin C13 H18 O7. Vỏ và nhựa cây liễu có salicylic acid. Vào thời đại Thánh Kinh người ta dùng vỏ cây liễu để trị đau nhức và sốt. Dược tính của cây liễu được tổ ngành Tây Y là Hippocrates đề cập. Lá giã nát đắp vào nơi đau nhức. Vỏ và lá sắc nước uống như trà như uống aspirin vậy. Nhìn chung lá và vỏ cây liễu được dùng để trị viêm khớp xương, cầm máu, hạ sốt, bịnh ngoài da, tiêu chảy, kiết lỵ. Hột dùng để hạ sốt, ngăn chặn xuất huyết, hoàng đản, viêm khớp xương.
Người bị dị ứng aspirin không dùng trà lá, vỏ hay bột vỏ cây liễu.

 
GỪNG
 
Zingiber officinale
Gia đình: Zingiberaceae

          Gừng là một loại củ có nhiều nhánh có vị cay nồng. Hoa gừng được các nhà thực vật học liệt vào loại hoàng hậu của các loại hoa. Gừng có một vai trò quan trọng trong các nhà bếp và trong phương pháp trị liệu cổ truyền trong dân gian ở Á Châu như Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam v.v.

Tên khoa học của gừng là Zingiber officiale thuộc gia đình Zingiberaceae. Tên gọi thông thường là:
Quốc Gia
Tên Gọi
Việt Nam
Gừng; Khương (Hán Việt)
Trung Hoa
Jiang (âm ra tiếng Việt thành KHƯƠNG hay KHANG)
Anh
Ginger
Pháp
Gingembre
Nhật
Shoga
Ấn Độ (Hindi) 
Adarakh (Ấn Độ được xem là quê hương gốc của gừng)
Sanskrit
Singabera

Người Ấn Độ, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, Indonesia, Mã Lai…biết dùng gừng để trị bịnh từ lâu. Cổ y thư Ayurveda của Ấn Độ chép rằng gừng được dùng để trị các chứng viêm (inflammations), viêm khớp xương (bột gừng), làm giảm đau nhức và sưng phù.

Gừng có: gingerol C17 H26 O4, shogaol C17 H24 O3, Zingerone C11 H14 O3, zingiberene, zingiberol, curcumene có khả năng chống viêm hạch tuyến tiền liệt. Vị cay của gừng do sự hiện diện của gingerols và shogaols mà ra.

Dầu cất từ gừng có zingiberene, beta- phelladrene, cineol, citral.

Công dụng trị liệu:
a. Củ: dùng để trị đau bụng, sình bụng (flatulence), kinh nguyệt bất thông, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy, kiết lỵ, gây phát hạn (đổ mồ hôi), trị ho, cảm, đau khớp xương, phụ nữ mang thai hay ói mửa, hạ cholesterol v.v.
b. Dầu gừng: dùng để trị ung thư da. Gần đây người ta phát hiện dầu gừng có thể diệt tế bào ung thư buồng trứng.

Người bị sạn mật không được dùng gừng.

 
NGHỆ
 
Curcuma longa
Gia đình: Zingiberaceae

         
Nói đến nghệ người ta liên tưởng ngay đến nước Ấn Độ nơi thức ăn chính của cư dân là cà-ri nấu bằng bột nghệ. Người ta cũng tin rằng quê hương gốc của nghệ là nước Ấn Độ.

Tên khoa học của nghệ là Curcuma longa thuộc gia đình Zingiberaceae như củ gừng. Tên gọi thông thường:
Quốc Gia
Tên Gọi
Việt Nam
Nghệ, Uất Kim, Hoàng Khương (Gừng vàng- âm từ 
huang jiang)
Trung Hoa
Huang jiang, jiang huang (khương hoàng)
Anh
Turmeric, yellow ginger, India saffron
Pháp
Safran des Indes
Nhật
Tamerikku
Ấn Độ (Hindi) 
Haldee

Thức ăn cà- ri của người Ấn Độ được nấu từ bột nghệ (bột cà ri). Ấn Độ hiện nay sản xuất 75% tổng sản xuất nghệ trên thế giới (từ 600,000- 800,000 tấn). Các quốc gia sản xuất nghệ phần lớn là các quốc gia ở Nam Á và Đông Nam Á.

Công dụng:
- nấu nướng: làm bột ca- ri; dùng làm hương liệu kho cá hay chiên xào thức ăn có thịt và thực vật.
- màu nhuộm thức ăn như bánh xèo, bánh rế, bánh cay. Màu nhuộm vải vóc và tơ lụa
- người Ấn Độ uống sữa + nghệ cho da được tươi nhuận. Ở Việt Nam phụ nữ sinh con thường thoa nghệ để xóa những vết nhăn. Người ta thoa bột nghệ trên các vết thương để xoá vết sẹo.
- màu vàng của nghệ là do curcumin C21 H20 O6 mà ra . Nghệ có lối 5% tinh dầu có mùi thơm do sự hiện diện của turmerone C15 H20 O, ar- turmerone, zingiberene C15 H24.
- Trị liệu: trị bịnh dạ dày, hoàng đản, ung thư, vết sẹo, làm cho gan và mật hưng phấn hơn.
Ở Trung Hoa người ta dùng nghệ để trị lãi, đau ngực, đau bụng, viêm gan, chướng hơi. Việc dùng hoàng khương trị liệu có thêm một bước tiến khá dài vì nghệ có đặc tính kháng viêm, kháng khuẩn, kháng ốc xy hoá. Nghệ được dùng để chữa chứng Alzheimer, mất trí nhớ, đau khớp xương, ung thư và tiểu đường. Nghệ thanh lọc máu và làm cho máu ấm.

Trong y học dân gian dùng nam dược thảo người ta dùng:
Nghệ (Curcuma longa) + lá Tía Tô (Perilla ocymoides) + Ngò Ôm (Rau ôm) (Limmophila aromatica) giã nát vắt nước hòa chút nước rồi lọc xác uống trị chứng suyễn kinh niên.

Ngoài ra Cam Thảo Glycyrrhiza glabra, gia đình Fabaceae và Quế Cinnamonum zeylanicum, gia đình Lauraceae cũng được dùng để chữa tê thấp.
 
PHẠM ĐÌNH LÂN, F.A.B.I.
Bài viết tổng hợp dựa vào Thế Giới Thảo Mộc Từ Điển do tác giả Phạm Đình Lân biên soạn.
 

 

Cung Nguyen

17 thg 12 (5 ngày trước)
tới davidAnAnhanhCaiCaiCatherineCheChiChienChieuDanDaoDianaDiemDucDuocDuongDzungGaHiepHieuHoaHungHung
Kính Thầy , em muốn hỏi Thầy cho rỏ là các loại thảo mộc chữa viêm khớp dạng thấp (RHREUMATOID ARTHRITIS)
có thể dùng cho viêm xương khớp ( OSTEOARTRHITIS) hoặc bệnh gút (GOUT) không?
Tiếng Việt mình thường nói là viêm khớp chung chung để chỉ những bệnh đau khớp,nghĩa là khớp bị bệnh SƯNG,
ĐỎ,NÓNG,ĐAU,HẠN CHẾ CỬ ĐỘNG;nhưng trong chuyên môn thì có hàng chục loại viêm khớp với cơ chế gây bệnh
khác nhau và do đó cách điều trị cũng khác.
NĐCung

Lễ Giáng Sinh Phạm Ɖình Lân, F.A.B.I.

GIANG SINH VUI VE
&
TAN NIEN VAN PHUC LAM MON
Thay Lan
phamdinhlan (david)


Lễ Giáng Sinh

Phạm Ɖình Lân, F.A.B.I.

Lời nói đầu: Bài viết được viết ra bởi một người không phải là tín hữu đạo Christ (Thiên Chúa Giáo, Chính Thống Giáo, Tin Lành, Anh Quốc Giáo, Coptic). Nếu có sai sót xin người đọc bỏ qua và bổ túc hay sửa chửa để được hoàn hảo hơn. Tôi viết bài nầy theo sự gợi ý của thi sĩ Nguyễn Hoàn Nguyên. Tôi mến tặng bài viết nầy cho thi sĩ Nguyễn Hoàn Nguyên, anh chị Nguyễn Hữu Của-Kim Sa và các em Phạm Thị Phương, Ɖỗ Thị Cài, Dzung Nguyễn, Bùi Thị Quý, Nguyễn Thị Thập với tất cả đức tin thiên phú của tôi, người luôn tin rằng “ai không tin vào phép lạ là thiếu thực tế” (Qui ne croit pas aux miracles est irréaliste) - Phạm Ɖình Lân.


                                https://media.licdn.com/mpr/mpr/AAEAAQAAAAAAAAlsAAAAJDIyMDM4NmU3LWY1MmItNDY1OS1iMDczLTcxMDdmZTJkODkyMg.jpg           

Người Pháp gọi lễ Giáng Sinh là Noël và người Anh gọi là Christmas. Chữ Noël xuất phát từ tiếng Pháp cổ Naël. Naël bắt nguồn từ tiếng La Tinh NATALIS, có nghĩa là “sinh”, “sự ra đời”.
Lễ Giáng Sinh được cử hành vào ngày 25 tháng 12 Dương Lịch khắp nơi trên thế giới. Ở Bắc Bán Cầu ngày 25-12 là ngày băng giá của mùa Ɖông. Nhưng ở Úc, Nam Bán Cầu, đó là một ngày mùa Hạ oi bức.
Lễ Giáng Sinh được cử hành khắp nơi trên thế giới như làm ấm lại mùa Ɖông băng giá ở các nước ôn đới và hàn đới. Trên thế giới bất luận là quốc gia Hồi Giáo, Ấn Giáo, Phật Giáo, Khổng Giáo, Thần Giáo đều có cộng đồng tín hữu đạo Christ (Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo, Anh Quốc Giáo, Coptic) nên đâu đâu cũng có lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh ngày nay lan rộng sang cộng đồng các dân tộc không theo đạo Christ.
Cử hành lễ Giáng Sinh là cử hành ngày sinh của Chúa Hài Ɖồng, tức Chúa Jesus thường được biết là Jesus xứ Nazareth hay Jesus Christ (Jesus Chúa Cứu Thế). Nazareth là quê của Ɖức Mẹ Mary và Thánh Joseph, là nơi Chúa Jesus sống lúc ấu thời. Nazareth là một thành phố trong vùng Galilee Hạ. Ɖó không phải là nơi sinh của Chúa Jesus. Nơi sinh của Chúa là hang Bethlehem (Nhà Bánh Mì), sinh quán của vua David vì Thánh Joseph là hậu duệ của vị vua nầy. Bethlehem nằm cách thành phố Jerusalem 10 km về phía nam, hiện nằm trong vùng West Bank, vùng cư trú của người Palestine. Thành Bethlehem nằm trong xứ Judea ở miền nam xứ Do Thái.
Căn cứ vào sách Mathew, Luke, Mark trong Tân Ước Kinh, ta có các chi tiết quan trọng như sau:
1.    Chúa Jesus là con cháu của tổ phụ Abraham và David, trải qua 42 đời từ Abraham đến khi Chúa Jesus giáng sinh: a- 14 đời từ Abraham đến David. b- 14 đời từ David đến khi lưu đày sang Babylon. c- 14 đời từ khi bị lưu đày sang Babylon đến khi Chúa Jesus ra đời.

2.    Chúa Jesus là con của Ɖức Chúa Trời: Mẹ Ngài là Mary thành Nazareth hứa hôn cùng Joseph. Sự sống chung của hai người chưa xảy ra thì Ɖức Mẹ Mary mang thai suýt gây đổ vỡ cuộc hôn nhân và sống chung với Joseph. Thiên thần hiện ra trong giấc chiêm bao để báo cho Joseph biết Ɖức Mẹ mang thai bởi Thánh Linh. Người sẽ sinh một con trai đặt tên là Yeshua (tiếng Hebrew), tức Iesus theo tiếng La Tinh và Jesus như chúng ta biết và thường nghe. Theo lời Thiên Thần, người con trai sắp sinh của Ɖức Mẹ sẽ cứu dân Israel ra khỏi tội lỗi.


           

3.    Chúa Jesus giáng sinh dưới triều vua Herod thời đế quốc La Mã. Trong xứ Judea có tin một ngôi sao sáng sẽ chào đời lãnh đạo dân Do Thái. Vua Herod dò hỏi vì sao sáng ấy (ám chỉ hài nhi) ra đời ở đâu? “Ở Bethlehem”, các triều thần đáp. Vua phái họ đến đó. Họ đến đó với lễ vật quí giá chào mừng hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Từ hang Bethlehem họ không về kinh đô để báo cáo nơi sinh của Ɖức Chúa Jesus. Thiên Thần báo mộng cho Joseph dẫn Ɖức Mẹ Mary và hài nhi rời hang Bethlehem đi sang Ai Cập để lánh nạn. Ɖó là lúc vua Herod ra lịnh giết trẻ nít dưới hai tuổi vì lo sợ sẽ có một đứa trẻ thay mình lãnh đạo Do Thái khi lớn lên.

4.    Khi Ɖức Mẹ Mary và Joseph đưa người con đầu lòng vào Ɖền ở Jerusalem để làm lễ tinh sạch theo luật pháp Moses, có một người sùng đạo là Simeon ước mong được thấy Ɖấng Cứu Thế cứu người Do Thái trước khi nhắm mắt lìa đời. Có một một lực siêu hình nào đó thúc giục Simeon vào Ɖền và gặp hài nhi. Simeon vui mừng vì biết hài nhi nầy là Ɖấng mà ông mong đợi. Ông chia mừng với Ɖức Mẹ Mary và chồng là Joseph, dòng dõi vua David, khiến cho hai người không hiểu gì cả! Tiếp theo có một góa phụ tiên tri già 84 tuổi tên Anna cám ơn Ɖức Chúa Trời về đứa trẻ mà mọi người trông đợi để giải cứu thành Jerusalem. Bà Anna không bao giờ rời khỏi Ɖền và hết mực thờ phượng Ɖức Chúa Trời. Bà ăn chay và cầu nguyện.

5.    Năm 12 tuổi Chúa Jesus đàm luận và đặt câu hỏi với các bậc thức giả trong Ɖền ở Jerusalem. Tất cả đều khen ngợi sự đối đáp khôn ngoan của Ngài.
Tổ chức lễ Giáng Sinh là tổ chức mừng sinh nhật của Ɖức Chúa Jesus. Thực tế khó biết chính xác Chúa ra đời vào năm nào và ngày nào. Theo các học giả nghiên cứu về Chúa Jesus thì Người sinh khoảng năm 6 – 4 trước Tây Lịch và truyền giảng đạo từ năm 27 – 29 sau Tây Lịch. Ɖiều nầy có phần lệch lạc đôi chút. Người ta đã chọn năm Chúa giáng sinh là năm 0 làm mốc thời gian để phân biệt trước hay sau Thiên Chúa Giáng Sinh (BC: Before Christ và AD: Anno Domini), hay nói cách khác trước Tây Lịch và sau Tây Lịch. Vậy Chúa sinh năm 0 và giảng đạo từ năm 27 đến năm 29 AD (sau Tây Lịch hay sau Thiên Chúa Giáng Sinh) thì bị đóng đinh. Như vậy Chúa chỉ sống trên dương thế vỏn vẹn 29 năm. Nếu theo các học giả thì tuổi thọ của Chúa Jesus xê dịch từ 33 đến 34.
Còn ngày 25 tháng 12 thì sao?
Lễ Giáng Sinh đầu tiên được cử hành ở Rome (La Mã) vào ngày 25-12 năm 336. Hoàng đế Charlemagne chọn ngày lễ Giáng Sinh 25-12 để làm lễ đăng quang vào năm 800. Giáo Hội Thiên Chúa La Mã chọn ngày 25-12 làm ngày Giáng Sinh của Chúa Jesus theo lịch Gregorian. Giáo Hội Chính Thống Giáo phương Ɖông cũng dùng ngày 25-12 theo lịch Julian để cử hành lễ Giáng Sinh. Nếu so với lịch Gregorian tức Dương Lịch hiện hành thì lịch Julian đi sau 13 ngày. Thí dụ: Cách Mạng Tháng 10 Nga xảy ra ngày 26-10-1917 theo lịch Julian nhưng là ngày 07-11-1917 theo lịch Gregorian. Vậy ngày Giáng Sinh 25-12 theo lịch Julian của Giáo Hội Chính Thống Giáo sẽ là ngày 06-01 theo lịch Gregorian, nhưng cả hai ngày 25-12 và 06-01 đều nằm trong mùa Ɖông
Ngày 25 tháng 3 là ngày Lễ Báo Tin của Thiên Thần Gabriel cho Ɖức Mẹ Mary rằng bà thụ thai bởi Ɖức Thánh Linh (Luke 1: 26-38). Ngày 25-03 gần ngày Xuân Phân, tức ngày và đêm bằng nhau. Nếu đúng ngày đó là ngày thụ thai của Ɖức Mẹ Ɖồng Trinh thì ngày sinh của Chúa Jesus xảy ra vào chín tháng sau, tức là ngày 25-12. Ɖó là ngày gần với Ɖông Chí, Vào ngày Ɖông Chí đêm dài hơn ngày.
                                                                    ***
Cuộc đời của Chúa Jesus đầy dẫy những chuyện lạ và phép lạ, đau khổ tột cùng và vinh quang tột đỉnh. Một người được sinh trong máng cỏ hang lừa, vừa chào đời lại phải trốn tránh việc bách hại trẻ nít của vua Herod. Sống trong một gia đình tầm thường trong xã hội thuộc địa dưới sự thống trị của đế quốc La Mã, không có tài liệu nào nói về trường học và thầy dạy học của Chúa Jesus. Nếu không có hiển linh thì làm thế nào một người không giàu có, không học, không giàu kinh nghiệm sống lại có khẩu khí khác thường và đủ khả năng truyển giảng đạo, chửa bịnh, đi trên mặt nước, làm phép lạ về cá và bánh mì cho 5000 người ăn, thâu nhận môn đồ hầu hết là những ngư phủ, biết trước việc gì sẽ xảy ra cho mình, người đệ tử nào sẽ bán Chúa để nhận 30 quan tiền thưởng và còn thúc Juda thi hành ngay sự phản Thầy của ông ta, thấy trước việc Peter chối Chúa trước khi gà gáy sáng ba lần, báo trước ngày phục sinh sau khi bị đóng đinh.         

                               Bertram van Minden: Kruisiging
         
Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá (Bertram van Minden ca. 1340 – 1414/15)

Chúa Jesus là người Do Thái, là giáo chủ của đạo Christ mặc dù trong đời chỉ giảng đạo được hai năm và chết vào tuổi 29. Ɖạo Christ không phải là đạo của người Do Thái vì họ đã có Judaism (Do Thái Giáo) trước đó rồi. Trong ngày xử Chúa Jesus, Pontius Pilate tìm cách cứu Jesus bằng cách hỏi quần chúng hiện diện nên tha chết cho tên nổi loạn giết người Barabbas hay Jesus mà ông và vua Herod cũng không biết phạm tội gì để phải chịu tử hình. Nhưng lạ thay! Quần chúng đòi tha cho tên sát nhân Barabbas và đòi xử tử Jesus. Pilate hỏi lại một lần nữa nhưng tất cả đều trả lời: Ɖóng đinh Jesus trên thánh giá.
Trong chừng mực nào đó đạo Christ và đạo Phật giống nhau ở chỗ: đạo Christ phát xuất từ Do Thái nhưng không quan trọng ở Do Thái. Ɖạo Phật phát xuất từ Ấn Ɖộ nhưng không quan trọng ở Ấn Ɖộ. Lý do dễ hiểu là người Do Thái đã có đạo Judaism và người Ấn Ɖộ đã có đạo Bà La Môn (Ấn Giáo – Hinduism). Làm sao hai vị tân giáo chủ (Ɖức Chúa và Ɖức Phật) không gặp phản ứng dữ dội từ những vị lãnh đạo tôn giáo đã có từ trước? Chúa Jesus bị đóng đinh nghĩa là bị xem là phạm trọng tội hơn tên giết người Barabbas. Ɖức Phật há không bị ám hại bởi người em họ là Devadatta. Ngoài ra người ta còn nghi ngờ Ɖức Phật bị ngộ độc vào ngày cuối trên dương thế? Các lời ghi chép trong các sách trong Tân Ước Kinh gần như nhau cho thấy phép lạ và sự kiện huyền bí diễn ra đã được ghi chép một cách trung thực chớ không có sự thêm thắt chi cả vì đạo Christ không có địa vị độc tôn ở Do Thái. Vài điều lạ đáng lưu ý sau cái chết của Chúa Jesus trên thập tự giá là:
1.    Sự phục sinh và thăng thiên.
2.    Sự xuất hiện của Chúa để hướng dẫn các môn đồ đi truyền giảng đạo ven Ɖịa Trung Hải theo hướng Ɖông-Tây nối liền Trung Ɖông và các quốc gia trên lục địa Âu Châu.
3.    Có hai chuyện lạ đáng để ý khác là :
a.     Chuyện của Saul (5-67 sau Tây Lịch), một người sinh ở Tarsus, Thổ Nhĩ Kỳ, mạnh tay đàn áp các tín đồ đạo Christ ở Jerusalem. Trên đường đi Damacus nhằm mục đích giết hại tín đồ đạo Christ, Saul bị té ngựa vì có một ánh sáng từ trên không trung chiếu xuống sáng lòa. Tiếng nói của Chúa Jesus từ trên không vọng xuống: “Ta là Jesus, người mà nhà ngươi đi tìm bắt và bách hại”. Saul hoảng hốt. Chúa Jesus chỉ cho Saul nơi phải đến và những gì phải làm ở Damacus (hiện là thủ đô của Syria). Từ đó Saul trở thành một môn đồ truyền giảng đạo Christ rất đắc lực dù rất vất vã và gặp vô vàn gian nguy. Ɖó là Thánh Paul (St Paul) sau nầy
b.    Việc truyền giảng đạo rất gay go. Ɖâu đâu người truyền giảng đạo Christ và người theo đạo cũng đều bị bắt bớ, tra tấn hay giết chết. Hy Lạp là quê hương của những nhà triết học, toán học, vật lý học và thiên văn học trứ danh bắt đầu theo đạo Christ. Do Thái đặt dưới sự thống trị của đế quốc La Mã. Pontius Pilate, một phán quan người La Mã ở Judea,  đã xử Chúa Jesus. Không bao lâu nước Ý là nước theo đạo Christ mặc dù hoàng đế Nero (37 – 68 sau Tây Lịch, hoàng đế từ 54 – 68 sau Tây Lịch) ra lịnh đàn áp tín đồ đạo Christ gắt gao, thậm chí có người bị thả vào chuồng sư tử để làm mồi cho loại dã thú nầy. Năm 64 thành phố Rome bị hỏa hoạn thiêu hủy đến ba phần tư thành phố. Dân chúng loan truyền hoàng đế Nero đốt thành phố làm vui. Nero hướng về các tín đồ đạo Christ và gán tội cho họ đốt thành Rome. Dưới thời hoàng đế Nero dân Do Thái nổi dậy chống chính quyền đế quốc La Mã. Họ bị đàn áp đẩm máu. Hai năm sau khi hoàng đế Nero mất Ngôi Ɖền bị phá hủy lần thứ hai (70 sau Tây Lịch). Dân Do Thái bị lưu đày tứ phương kể từ đó. Vatican trở thành trung tâm của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo trên thế giới.
Âu Châu, Mỹ Châu là hai lục địa của đạo Christ bao gồm Thiên Chúa Giáo, Chính Thống Giáo, Tin Lành và Anh Quốc Giáo. Ai Cập là xứ Hồi Giáo nhưng có 10 triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo cổ xưa. Các giáo sĩ Tây Ban Nha và Bồ Ɖào Nha truyền giảng đạo Thiên Chúa ở Trung và Nam Mỹ. Ở Á Châu 90% dân Phi Luật Tân theo đạo Thiên Chúa  vì từ thế kỷ XVI quần đảo nầy đặt dưới sự cai trị của người Tây Ban Nha. Quốc hiệu Phi Luật Tân âm từ chữ Philippines, có nghĩa là quần đảo của hoàng đế Philip II. Ngày nay Nam Hàn có 47% dân số theo đạo Tin Lành và đạo Thiên Chúa. Người Tây Ban Nha truyền giảng đạo Thiên Chúa ở Ɖàng Ngoài vào năm 1533 dưới triều nhà Mạc. Người Bồ Ɖào Nha truyền giảng đạo Thiên Chúa ở Ɖàng Trong, Trung Hoa (Macau), Ấn Ɖộ(Goa), Nhật Bản (Kagoshima), New Guinea, Angola, Brazil, v.v. Ngày nay trên thế giới có 2,5 tỷ tín đồ đạo Christ (30% tổng dân số hoàn cầu) được phân chia như sau:

ƉẠO CHRIST
TÍN ƉỒ
ƉỊA BÀN
Thiên Chúa La Mã 
1, 2 tỷ
Nam và Trung Âu, Trung và Nam Mỹ
Tin Lành (các hệ phái)
0,9 tỷ (900 triệu)
Bắc Âu, Trung Âu, Bắc Mỹ v.v.
Chính Thống Giáo
0,25 tỷ (250 triệu)
Ɖông Nam Âu, Ɖông Âu (Nga)
Anh Quốc Giáo
0,085 tỷ (85 triệu)
Anh, Nam Phi, v.v.
Coptic
0,010 tỷ (10 triệu)
Ai Cập


Các quốc gia Thiên Chúa Giáo và Chính Thống Giáo có những cống hiến lớn trên các lãnh vực kinh tế, xã hội, giáo dục, y tế, kiến trúc, âm nhạc, nghệ thuật và khoa học kỹ thuật. Nhiều nhà truyền giáo dòng Jesuits hay Dominicans nghiên cứu sâu rộng về canh nông, y học, ngôn ngữ học. Pascal, Chateaubriand, Louis Pasteur, Victor Hugo,… đều là những vĩ nhân rất mộ đạo của Pháp. Các quốc gia Thiên Chúa Giáo đều nổi tiếng về việc trồng nho và sản xuất rượu nho. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes nghiên cứu quốc ngữ vào thế kỷ XVII. Chữ quốc ngữ La Tinh hóa nay trở thành quốc ngữ của Việt Nam khi Pháp thiết lập nên móng đô hộ của họ trên bán đảo chữ S.
Các nước theo đạo Tin Lành và Anh Quốc Giáo phát triển mạnh mẽ trên lãnh vực kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật. Hoa Kỳ và Anh Quốc là hai quốc gia được nhiều giải Nobel nhất trên thế giới.
Về phương diện xã hội các quốc gia theo đạo Christ đều có cuộc sống cao, được hưởng các quyền tự do tôn giáo, tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp. Nam, nữ được bình quyền và theo chế độ độc thê. Giáo dục bình đẳng và cưỡng bách.
Nhân loại gồm những người duy tâm, duy vật, duy lý và mê tín dị đoan. Người duy vật và duy lý xem hài nhi nằm trong máng cỏ, tức người thanh niên không sự nghiệp, không vợ con, không học vị thành Nazareth sau nầy, là một con người như mọi người. Dù phủ nhận Thánh Linh và chấp nhận đó là người bình thường thì ta không khỏi ngạc nhiên khi thấy một thanh niên trẻ, không học vị, không gia sản, không có gia đình riêng cũng không có chiến công quân sự hiển hách ngoài mặt trận đã chinh phục được 2,5 tỷ nhân loại có mức sống và trình độ văn hóa cao. Như vậy người ấy đã phá vỡ sự bình thường để đi quá xa trong thế giới trần tục mặc cho những đàn áp đẩm máu của các chánh quyền địa phương và chánh quyền thuộc địa thời đế quốc La Mã lúc bấy giờ. Không có gì bảo đảm một hoàng đế quyền uy một cõi, một tướng lãnh uy danh, một nhà thông thái độc nhất vô nhị của nhân loại thành công trong việc thuyết phục vợ con trong gia đình, đừng nói chi đến thiên hạ mặc dù họ được trang bị đầy đủ quyền thế, tiền tài, danh tiếng và trí khôn. Thế mới thấy con số 2,5 tỷ không phải là ít oi.
                                                         ***
Một hài nhi được sinh trong máng cỏ vào mùa đông giá rét đã phải chạy nạn ngay khi xuất hiện trên trần gian. Hài nhi ấy tự nhiên trở thành đối thủ nặng cân của vua Herod. Mệnh số của hài nhi ấy không tầm thường như những hài nhi khác. Trải qua cuộc đời thơ ấu ở thành Nazareth trong một gia đình thợ mộc tạm đủ ăn, không học trường nào cả nhưng năm 12 tuổi, người thiếu niên ấy đã bàn luận các vấn đề tâm linh thiêng liêng với các bậc thức giả trong Ɖền ở Jerusalem. Căn cứ theo Tân Ước Kinh, Chúa Jesus bắt đầu giảng đạo và thâu nhận môn đồ từ năm 27 tuổi đến 29 tuổi. Từ đó đến nay trên 2000 năm đạo Christ (Christianity – Christians) của hài nhi nằm trong máng cỏ và của người thanh niên thành Nazareth đã phát triển đều khắp thế giới. Không nơi nào không có đạo Christ, kể cả ở những xứ Hồi Giáo, Ấn Giáo, Phật Giáo, Khổng Giáo, Thần Giáo. Thánh Kinh được dịch ra hàng trăm ngôn ngữ để trở thành cuốn sách phổ biến sâu rộng nhất thế giới. Cho đến nay Giáo Hội Thiên Chúa đã có 266 vị Giáo Hoàng. Giáo Hoàng đầu tiên là Thánh St Peter (Saint Pierre tức Simon Peter – Peter/Pierre: thạch/đá).

                         HD Wallpaper | Achtergrond ID:705410

Lễ Noël hay Giáng Sinh được cử hành ngày 25 tháng 12 ở Bắc Bán Cầu và Nam Bán Cầu, cùng ngày nhưng khác mùa (mùa đông ở Bắc Bán Cầu nhưng là mùa hạ ở Nam Bán Cầu). Lễ Giáng Sinh được cử hành khắp nơi trên thế giới ngày nay. 75% các quốc gia trên thế giới xem ngày 25-12 là ngày lễ. Việt Nam có 11% dân số theo Thiên Chúa Giáo và Tin Lành Giáo nhưng là nơi lễ Giáng Sinh được cử hành long trọng hàng năm bởi những tín hữu đạo Christ và những gia đình không theo đạo Christ. Hài nhi sinh trong máng cỏ vào mùa đông, chạy nạn sang Ai Cập và khi lớn lên bị đóng đinh trên Thánh Giá như biểu tượng của sự nghèo khó, rét lạnh, sợ hãi của người bị áp bức, bị rình rập bắt bớ và giết chóc. Một người đã:
-      Phá vỡ những câu hỏi gài bẩy của những người có ác tâm muốn đưa Người vào ngục về tội chống đối chánh quyền hay không theo cổ luật ném đá vào các phụ nữ ngoại tình khi trả lời một cách nhanh nhẩu: “Trả cho Caesar cái gì của Caesar” và “Ai thấy mình vô tội hãy ném đá trước”.
-      Tha thứ cho kẻ hại mình (trường họp của Juda).
-      Tha thứ cho môn đồ thương yêu đã chối Thầy ba lần trước khi gà gáy sáng vì đó là người (trường họp của Peter Simon).
Lễ Giáng Sinh chỉ là sự trang hoàng cây Noël? Thiệp Giáng Sinh? Quà Giáng Sinh? Nhạc Giáng Sinh? Tiệc gà tây vào đêm Giáng Sinh?
Lễ Giáng Sinh bây giờ được xem như ngày đoàn tụ gia đình và ngày hòa bình trên thế giới.
Năm 1914 đệ nhất thế chiến xảy ra đẩm máu ở mặt trận phía Tây. Ngày Giáng Sinh năm ấy được xem là ngày hưu chiến vì cả hai phe giao chiến đều tôn kính Ɖức Chúa Jesus. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam vừa qua các phe giao chiến đều chấp nhận ngày 25-12 là ngày hưu chiến cũng như ngày Tết cổ truyền của người Việt Nam vậy.
Chúc mọi người một mùa Giáng Sinh Vui Vẻ. Thế giới chỉ hòa bình khi người người đều được sự bình an trong tâm.
                                                            Peace in mind.
                                                           Peace on Earth.

Phạm Ɖình Lân, F.A.B.I.